Những điều cơ bản nhất về Dược học Cổ truyền

Thuốc Y học Cổ truyền (YHCT) có nguồn gốc tự nhiên từ các loài thực vật, động vật và khoáng vật, do kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh với bệnh tật của con người mà dần dần tìm ra. Theo thời gian, nguồn dược liệu tự nhiên ngày càng cạn kiệt, vì vậy ngày nay con người phải gieo trồng và chăn nuôi để tạo ra nguyên liệu làm thuốc. Để sử dụng cây thuốc – dược liệu một cách hiệu quả an toàn, bắt buộc phải có sự hiểu biết cơ bản và chuyên sâu về nguồn gốc, quá trình thu hái, bào chế, công năng, sự quy kinh, phối hợp các vị thuốc với nhau và những kiêng kỵ khi dùng thuốc.

  1. NGUỒN GỐC
  2. THU HÁI BẢO QUẢN
  3. BÀO CHẾ ĐƠN GIẢN
    1. Dùng lửa
    2. Dùng nước
    3. Phối hợp lửa và nước
  4. TÍNH NĂNG DƯỢC VẬT
    1. Tứ khí
    2. Ngũ vị
    3. Thăng, giáng, phù, trầm
    4. Bổ tả
  5. SỰ QUY KINH CỦA THUỐC
  6. SỰ PHỐI NGŨ (PHỐI HỢP) CỦA CÁC VỊ THUỐC
  7. SỰ CẤM KỴ TRONG KHI DÙNG THUỐC

1. NGUỒN GỐC

Thuốc Y học Cổ truyền gồm các loại thực vật, động vật, khoáng vật và một số chế phẩm hoá học. Sự xuất hiện của thuốc là từ kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh với bệnh tật của con người mà tìm ra. Số lượng, chất lượng thuốc có sự tiến bộ dần dần theo sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất.

Thời nguyên thuỷ, thực vật hay động vật hoàn toàn do nguồn tự nhiên cung cấp, về sau các nguồn này thiếu hụt dần nên con người phải gieo trồng, thu hái và chăn nuôi. Các loại thuốc khoáng vật thì phát triển từ việc khai thác các mỏ như thạch cao, chu sa, hùng hoàng…

Ở nước ta trước đây, các thuốc YHCT thường dùng đều phải nhập từ nước ngoài. Hiện nay các nhà khoa học đã tìm và xác định được nhiều cây thuốc, vị thuốc quý sẵn có trong nước, cùng với một số thuốc đã di thực được (trồng được tại Việt Nam) như: sinh địa, bạch truật, huyền sâm, bạch chỉ,… Một số vị thuốc khác do điều kiện đất đai, thổ nhưỡng chưa di thực được còn phải nhập.

2. THU HÁI BẢO QUẢN

Thu hái: Các bộ phận của cây thuốc có thời kỳ sinh trưởng riêng biệt nên thời gian thu hái phải khác nhau để đảm bảo tỷ lệ cao nhất các hoạt chất có dược tính.

  • Gốc, củ, vỏ, rễ: thu hái vào đầu xuân, cuối thu hoặc mùa đông (lúc cây khô héo các hoạt chất sẽ tập trung tại rễ).
  • Mầm, lá: thu hái vào mùa xuân, hè.
  • Hoa: thu hái lúc ngậm nụ hoặc mới nở như hoa cúc, hoa kim ngân.
  • Quả: thu hái lúc đã chín.
  • Hạt: thu hái lúc quả thật chín.

Bảo quản: Tránh ẩm thấp, nóng, ánh sáng mặt trời, sâu mọt. Cần đậy kín bộ phận cây thuốc có tinh dầu, phơi chỗ râm mát (âm can).

3. BÀO CHẾ ĐƠN GIẢN

1. Mục đích

  • Làm mất hoặc làm giảm chất độc của thuốc. Ví dụ: Bán hạ dùng sống gây ngứa, nên phải chế với nước gừng. Ba đậu có dầu gây tiêu chảy dữ dội, cần bào chế làm mất chất dầu, giảm độc tính.
  • Điều hoà lại tính năng của vị thuốc, làm hoà hoãn hoặc tăng công hiệu.
    Có một số vị thuốc dùng sống, chín tác dụng khác nhau. Ví dụ: Sinh địa dùng sống tính lạnh mát dùng để thanh nhiệt lương huyết. Thục địa là Sinh địa đem nấu chín với rượu tính hơi ấm dùng để bổ huyết.
  • Bỏ tạp chất, làm cho sạch.
  • Qua bào chế, giúp cho bảo quản dễ dàng, sử dụng thuận lợi, dự trữ được thuốc vì thuốc thực vật sinh trưởng có mùa.

2. Phương pháp bào chế

Có 3 phương pháp bào chế chính: dùng lửa, dùng nước và kết hợp lửa với nước.

1. Dùng lửa (hoả chế): 

Dùng lửa trực tiếp hay gián tiếp để hong, sấy, đốt làm khô ráo, sém vàng, thành than.

Sao: đem vị thuốc cho vào nồi rang, chảo rồi sao. Đây là phương pháp hay dùng nhất. Tuỳ mức độ nóng khác nhau sẽ có sao vàng: Bạch truật, Hoài sơn; sao cháy; Quả dành dành; sao đen (thành than tồn tính vẫn giữ nguyên hình dạng chưa thành tro): Trắc bá diệp. Thường sao vàng để kiện tỳ, sao đen để cầm máu.

Nung: bỏ ngay vị thuốc vào lửa đỏ, hoặc nung trong nồi chịu lửa, thường dùng choc các loại thuốc khoáng vật: Mẫu lệ, Từ thạch… làm cho mất nước tăng tác dụng hấp thu hoặc thu sấp.

Bào: cho vị thuốc vào chảo sao trong chốc lát, đến khi sém vàng xung quanh, nứt nẻ, làm giảm tính mãnh liệt của thuốc như Bào khương.

Lùi: đem vị thuốc bọc giấy ướt hay cám rồi lùi vào tro nóng hoặc than đến khi giấy cháy, cám cháy là được để thu hút một số hoạt chất có dầu, làm giảm bớt độc tính của thuốc như Cam toại.

Sấy: sấy thuốc trên than, trong lò sấy. Sấy khô: Cúc hoa, Kim ngân hoa; sấy vàng khô ròn như: Thuỷ điệt, Manh trùng.

Chích: (nước) chích là sao có tẩm mật, đường và các thành phần khác đến khi không dính là được. Chính để làm tăng tác dụng của vị thuốc, như chích cam thảo với mật để làm tăng tác dụng dinh dưỡng, nhuận phế.

2. Dùng nước (thuỷ chế):

Dùng nước làm cho vị thuốc sạch, mềm, dễ thái, giảm độc tính.

Rửa: làm sạch chất bẩn, đất.

Giặt sạch: Lâu công hơn rửa, dùng nguồn nước tưới vào thuốc cho trôi tạp chất.

Ngâm: Dùng nước nguội hay nước sôi để ngâm. Đào nhân ngâm nước dễ bóc vỏ. Nếu vị thuốc cứng phải ngâm lâu cho mềm, dễ thái, giảm độc tính.

Tẩm: Ngâm cho mềm vị thuốc dễ bào nhỏ.

Thuỷ phi: Cho thêm nước vào nghiền chung với thuốc để tán nhỏ mịn và thuốc không bay ra như Hoạt thạch, Chu sa, Thanh đại.

3. Phối hợp lửa nước (thuỷ hoả hợp chế)

Chưng: chưng cách thuỷ cho chín, hoặc chưng với rượu như thục địa để làm mất tính đắng lanh của thuốc, thay đổi công hiệu.

Nấu: đun nấu thuốc với nước, với nước sắc vị thuốc khác hoặc với giấm. Nấu lấy tinh chất hoà tan rồi cô thành cao.

Tôi: đem vị thuốc nung đỏ rồi tôi với nước hoặc giấm làm cho tan rã và ngậm nước, thường dùng cho các loại khoáng vật.

Ngoài ra còn dùng giấm, rượu, nước cơm, nước muối ăn mà phối hợp với các cách tẩm, ngâm nước, nướng, sao, chưng để đạt yêu cầu chữa bệnh theo các nguyên tắc: rượu đưa lên, gừng phát tán, muối vào thận, giấm vào can (gan).

4. TÍNH NĂNG DƯỢC VẬT

Tính năng dược vật là tác dụng dược lý của vị thuốc để điều chỉnh lại sự mất thăng bằng về âm dương trong cơ thể. Tính năng của vị thuốc gồm khí, vị, thăng, giáng, phù, trầm và bổ tả.

1. Tứ khí (tứ tính)

Bao gồm 4 tính chất: hàn (lạnh), nhiệt (nóng), ôn (ấm), lương (mát). 4 tính chất này do sự phản ứng của cơ thể khi dùng thuốc mà nhận thấy.

  • Hàn, lương: thuộc âm. Những thuốc hàn, lương còn gọi là âm dược dùng để thanh nhiệt (hoả), giải độc, những thuốc này có tính chất trầm, giáng chữa chứng nhiệt, dương chứng.
  • Nhiệt, ôn: thuộc dương. Những thuốc nhiệt, ôn còn gọi là dương dược để ôn trung, tán hàn, những thuốc này có tính chất thăng, phù để chữa chứng hàn, âm chứng.

Ngoài ra có một số loại thuốc không rõ rệt 4 tính chất kể trên thì được xếp là tính bình (hay hòa hoàn).

Dựa vào phân loại khí/tính như trên, muốn chữa bệnh hiệu quả và sử dụng thuốc đúng đắn, cần phải chẩn đoán bệnh chính xác xem thuộc chứng hàn hay chứng nhiệt, sau đó sử dụng đúng tính chất của thuốc để khắc chế. Đó chính là nguyên tắc dùng thuốc Y học Cổ truyền. Chẩn đoán sai, dùng nhầm thuốc sẽ dẫn đến không có hiệu quả gì, không tốt hoặc hậu quả tai hại cho người bệnh.

2. Ngũ vị

Thông qua vị giác mà nhận thấy 5 vị thuốc: tân (cay), toan (chua), khổ (đắng), cam (ngọt), hàm (mặn). Ngoài ra còn có vị đạm nghĩa là không có vị rõ rệt, nên có tài liệu ghi là lục vị.

Vị cay (tân): có tác dụng bổ dưỡng để chữa các chứng hư, hoà hoãn để giảm cơn đau, bớt độc tính của thuốc hay giảm độc cơ thể khi dùng làm thuốc, điều hoà tính của các vị thuốc. như: Đẳng sâm, Hoàng kỳ bổ khí; Thục địa, Mạch môn bổ âm; Kẹo mạch nha chữa cơn đau dạ dày.

Vị chua (toan): hay thu liễm, cố sáp, chống đau dùng để chữa chứng ra mồ hôi (tự hãn), ỉa chảy, di tinh. Như Kim anh, Sơn thù liễm mồ hôi, cố tinh, sáp niệu, Kha tử, Ngũ bột tử chữa ỉa chảy lâu ngày, sau trực tràng; Ô mai chữa đau bụng do giun.

Vị đắng (khổ): có tác dụng tả hạ và táo thấp dùng để chữa chứng nhiệt, chứng thấp, như: Hoàng liên, Hoàng bá thanh nhiệt trừ thấp chữa lỵ và ỉa chảy nhiễm trùng; Thương truật kiện kỳ táo thấp chữa ỉa chảy, đờm nhiều.

Vị ngọt (cam): Vị ngọt có tác dụng bồi bổ, hoãn giải hay nói cách khác là có tác dụng “phù chính”, “chính” ở đây là chỉ “chính khí”. Các vị thuốc bổ như nhân sâm, hoàng kỳ, kỷ tử, dâm dương hoắc, linh chi, bạch linh… đều chứa nhiều đường. Các vị khác như đại táo, long nhãn, kỷ tử, hồ đào nhân, lộc nhung, cáp giới, tử hà sa… đều chứa nhiều protid, acid amin… làm cơ sở vật chất cho công năng “tư bổ” của dược vật. Cam thảo vị ngọt cũng đã được chứng minh là có tác dụng làm giãn cơ trơn, chống co thắt… tạo nên hiệu quả “cam năng hoãn”, “hoãn cấp chỉ thống” theo quan niệm của Đông y.

Vị mặn (hàm): hay đi xuống, làm mềm nơi bị cứng hoặc các chất ứ đọng cứng rắn (nhuyễn kiên), thường dùng chữa táo bón, lao hạch, viêm hạch; như: Mang tiêu (thành phần chủ yếu là Natri sulfat) gây nhuận tràng, tẩy.

Ngũ vị có quan hệ rất mật thiết với tứ khí, ngũ tạng, ngũ sắc, dựa trên quan hệ này để xác định tác dụng của thuốc, tìm thuốc và bào chế thuốc.

Quan hệ giữa khí và vị:

Khí và vị kết hợp với nhau thành tính năng thuốc, không thể tách rời ra được. Có những thứ thuốc một khí nhưng kiêm mấy vị: như Quế chi tính ôn (ấm) nhưng có vị ngọt, cay; Sinh địa tính hàn (lạnh) nhưng có vị đắng, ngọt.

Vì vậy khi sử dụng thuốc trên lâm sàng phải nắm đồng thời khí và vị của thuốc. Ví dụ: nếu sốt do biểu nhiệt dùng thuốc tân lương giải biểu như Bạc hà, Sài hồ; nếu sốt do thực hiện dùng thuốc đắng lạnh (khổ hàn) như Hoàng liên, Đại hoàng; do hư nhiệt vì tân dịch hao tổn dùng thuốc ngọt lạnh (cam hàn) như Sinh địa: Huyền sâm.

Bảng quan hệ giữa khí và vị:

TínhVí dụ tên thuốcVịTác dụng
Ôn (ấm)Gừng sống, Hậu phác, Hoàng kỳ, Ô maiCay, Đắng, Ngọt, ChuaTán hàn, giải biểu, hành khí, kiện tỳ, cố sáp (cầm ỉa chảy)
Hàn (lạnh)Hoàng liên, Phù bìnhĐắng, CayThanh nhiệt, trừ thấp, tân lương, giải biểu
Hàn ônLô căn, Cam thảoNgọtThanh nhiệt, tả hoả, kiện tỳ
Hàn lương nhiệtThạch cao, Bạc hà, Phụ tửCayThanh nhiệt, tả hoả, tân lương, giải biểu, trừ hàn

Quan hệ giữa ngũ vị, ngũ sắc, ngũ tạng

Người xưa dựa vào những quan hệ sau đây để tìm cây thuốc, nhận xét sơ bộ về tác dụng lâm sàng của cây thuốc khi đưa vào cơ thể:

  • vị chua, sắc xanh vào can
  • vị ngọt, sắc vàng vào tỳ
  • vị cay, sắc trắng vào phế
  • vị đắng, sắc đỏ vào tâm
  • vị mặn, sắc đen vào thận

Những quan hệ này cũng chỉ đạo sự quy kinh của thuốc sẽ nói ở mục sau.

3. Thăng, giáng, phù, trầm

Thăng – giáng – phù – trầm là chỉ xu hướng tác dụng của thuốc: thăng là đi lên, giáng là đi xuống, phù là phát tán ra ngoài, trầm là thẩm lợi vào trong và xuống dưới.

  • Các vị thuốc thăng và phù đều đi lên, hướng ra ngoài thường có tác dụng: thăng dương, phát biểu, tán hàn.
  • Các vị thuốc trầm và giáng thường đi xuống và vào trong nên có tác dụng: tiềm dương, giáng nghịch, thu liễm, thẩm lợi, tả hạ.

4 tính chất thăng, giáng, phù, trầm có quan hệ mật thiết với khí, vị và tỷ trọng nặng, nhẹ của vị thuốc:

  • Vị cay, ngọt, tính ôn nhiệt thuộc dương thường là các thuốc loại thăng như Ma hoàng, Quế chi, Gừng,…
  • Vị đắng, chua, mặn, tính hàn, lương thuộc âm thường là các thuốc loại trầm, giáng như Đại Hoàng, Mang tiêu, Hoàng liên,…
  • Thuốc loại hoa, lá là những vị thuốc có tỷ trọng nhẹ thường là các thuốc loại phù, thăng như Lá sen, Bạc hà, Kinh giới,…
  • Thuốc khoáng vật, hạt, quả có tỷ trọng nặng thường là các thuốc loại trầm, giáng như Mẫu lệ, Long cốt, Tô tử Chỉ thực, Thục địa,…

Trên lâm sàng nhận xét rằng, bệnh tật phát sinh ở những vị trí khác nhau của cơ thể như trên, dưới, trong, ngoài, xu thế của bệnh có khi nghịch lên trên (nôn, nấc), có khi giáng xuống dưới (ỉa chảy, sa trực tràng),… nên khi dùng các loại thuốc phải có sự phân biệt và cân nhắc khác nhau. Ví dụ:

  • Bệnh tại biểu thường dùng các thuốc phù, thăng mà không dùng thuốc trầm, giáng.
  • Bệnh tại lý, dưới thường dùng các thuốc trầm, giáng mà không dùng thuốc phù, thăng.
  • Bệnh nghịch lên trên gây nhức đầu thì dùng Thạch quyết minh, Mẫu lệ để trầm, giáng.
  • Bệnh thể đi xuống thì dùng các thuốc thăng, phù như chứng tỳ hư hạ hàm, hay chứng sa trực tràng phải dùng các thuốc kiện tỳ, thăng dương như Hoàng kỳ thăng ma, Sài hồ để chữa, nếu dùng thuốc đắng lạnh để hạ, bệnh lại càng nặng thêm.

Tính chất thăng, giáng, phù, trầm của vị thuốc còn có thể thay đổi tuỳ theo sự bào chế và sự phối ngũ:

  • Bào chế: vị thuốc sao với rượu thì đi lên, sao với nước ngừng thì phát tán, sao với giấm thì thu liễm, sao với muối thì đi xuống.
  • Phối ngũ: vị thuốc thăng, phù nếu phối hợp với nhiều vị thuốc trầm, giáng sẽ đi xuống; vị thuốc trầm, giáng nếu phối hợp với nhiều vị thuốc thăng, phù có thể theo đó mà đi lên trên.

4. Bổ tả

    Bệnh tật là qúa trình đấu tranh mất đi hay phát triển của chính khí và tà khí. Vì vậy bệnh tật có 2 mặt: hư và thực.

    Nguyên tắc chữa bệnh: hư thì bổ, thực thì tả, do đó tính năng của thuốc căn cứ yêu cầu chữa bệnh còn chia làm 2 loại bổ và tả.

    Trong khi vận dụng thuốc để chữa bệnh trước hết phải nắm được khí, vị sau đó tiến lên phân loại thuốc bổ hay tả. Thí dụ: Hoàng liên tính hàn có tác dụng thanh nhiệt táo thấp là thuốc tả; Thiên môn tính hàn, chữa âm hư gây sốt là thuốc bổ: Đào nhân có tác dụng hoạt huyết chữa chứng ứ huyết là thuốc tả: Bạch thược bổ huyết chữa chứng huyết hư là thuốc bổ.

    Trên thực tế lâm sàng, do tính chất phức tạp của bệnh tật, chứng hư và chứng thực lẫn lôn, hoặc bẩm tố là hư mắc thêm bệnh mới thì khi dùng thuốc phải vận dụng bổ tả cùng dùng để chữa bệnh (công bổ kiêm trị).

5. SỰ QUY KINH CỦA THUỐC

Quy kinh (quy: quy nạp, đi vào; kinh: 12 kinh mạch trong cơ thể người theo Học thuyết Kinh lạc) là tác dụng đặc biệt của các vị thuốc đối với các bộ phận khác nhau của cơ thể, tuy về tính năng dược vật (khí, vị, bổ, tả) có thể giống nhau, nhưng tác dụng chữa bệnh ở các vị trí lại khác nhau. Ví dụ: bệnh nhiệt phải sử dụng thuốc hàn lương, nhưng nhiệt ở phế, vị, đại tràng… khác nhau, phải sử dụng thuốc khác nhau. Sự quy kinh của thuốc căn cứ vào:

1. Căn cứ vào hệ kinh lạc và các trạng phủ. Quy kinh là đem tác dụng của vị thuốc quan hệ với lục phủ ngũ tạng và 12 kinh mạch, nói rõ tác dụng của vị thuốc đối với bệnh trạng của phủ, tạng, kinh lạc nào đó.

Theo kinh nghiệm thực tế lâm sàng, người xưa đã tổng kết một số các triệu chứng quy nạp thành hội chứng bệnh của từng kinh lạc, từng tạng phủ, sau đó nghiên cứu tác dụng của thuốc thấy nó tác dụng vào kinh lạc, tạng phủ nào. Ví dụ: Cát cánh, Hạnh nhân chữa chứng ho hen thuộc bệnh của phế, Táo nhân vào tâm kinh vì nó tác dụng an thần, Cương tàm vào can vì chữa co giật.

2. Căn cứ vào học thuyết kinh lạc về sự liên quan chặt chẽ giữa các đường kinh để thể hiện sự quy kinh. Ví dụ:

  • Sài hồ là vị thuốc chữa bệnh thuộc đởm kinh cũng có tác dụng chữa vào kinh can (sơ can giải uất, thanh can minh mục) vì can và đởm có quan hệ biểu lý về đường kinh và tạng phủ.
  • Câu đằng là vị thuốc bình can tức phong chữa bệnh ở kinh can, cũng có tác dụng đến tâm bào lạc vì kinh can và kinh tâm bào lạc cũng là kinh quyết âm.

3. Căn cứ vào lý luận ngũ hành làm cơ sở, đặc biệt là quan hệ giữa ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng. Ví dụ: cam thảo màu vàng vị ngọt chữa bệnh ở tỳ và vị, Mang tiêu mặn và đen vào thận, Chu sa đắng và đỏ vào tâm…

Trên thực tế lâm sàng, một số vị thuốc có nhiều tác dụng khác nhau, chữa nhiều bệnh khác nhau vì sự quy kinh của nó vào nhiều tạng phủ khác nhau như hạt Sen có tác dụng cầm ỉa chảy, cầm di tinh, an thần vì vào kinh tỳ, thận, tâm; Ô mai vào kinh phế, tỳ, can nên có tác dụng chữa ho, cầm ỉa chảy, chữa đau bụng giun. Có những vị thuốc vào cả 12 kinh như Cam thảo nên việc dùng rất rộng rãi và phổ biến (trong sách Thương hàn luận có 250 bài thuốc thì 120 bài có Cam thảo).

Khi nghiên cứu tác dụng của thuốc, nắm được sự quy kinh có thể giúp cho sự vận dụng tổng hợp các vị thuốc được chính xác, giải thích được sự phối hợp của các vị thuốc mà bản thân chúng được phân loại riêng hoặc nằm ở các chương khác nhau của các sách vở, tài liệu. Ví dụ: Bạch thược, Sài hồ hay phối hợp với nhau vì chúng đều quy vào kinh can (Sài hồ là thuốc giải biểu, Bạch thược là thuốc bổ âm).

6. SỰ PHỐI NGŨ (PHỐI HỢP) CỦA CÁC VỊ THUỐC

Phối ngũ là việc sử dụng từ 2 vị thuốc trở lên, nó là cơ sở cho việc tạo thành các bài thuốc dùng trên lâm sàng. Mục đích của sự phối ngũ các vị thuốc là để phát huy hiệu lực chữa bệnh, hạn chế tác dụng xấu của vị thuốc, mặt khác để thích ứng với những chứng hậu bao gồm nhiều triệu chứng phức tạp trong quá trình bệnh tật.

Có 7 loại phối ngũ mà Y học Cổ truyền gọi là thất tình hoà hợp:

  1. Tương tu: 2 thứ thuốc cùng một tác dụng hỗ trợ kết quả cho nhau.
  2. Tương sử: 2 vị thuốc trở lên dùng chung, một thứ là chính một thứ là phụ để nâng cao hiệu quả chữa bệnh.
    Tương tu và tương sử là hai loại phối ngũ thường thấy nhất.
  3. Tương uý: khi một thứ thuốc có tác dụng xấu dùng chung với một vị khác để chế ngự. Ví dụ: Bán hạ sống gây ngứa dùng với Gừng cho hết ngứa.
  4. Tương sát: một vị thuốc có độc, dùng với một vị khác để tiêu trừ độc tính.
    Tương uý và tương sát là sự phối ngũ thường thấy đối với các thuốc độc.
  5. Tương ố: 2 vị thuốc dùng chung với nhau sẽ làm giảm hoặc làm mất hiệu lực của nhau như Hoàng cầm với Sinh khương.
  6. Tương phản: một số ít thuốc đem phối ngũ gây tác dụng độc thêm, như Ô dầu với Bán hạ.
    Tương ố và tương phản là sự phối ngũ cấm kỵ trong khi thuốc dùng.
  7. Dùng đơn độc một vị thuốc: Ví dụ: Độc sâm thang (chỉ có một vị Nhân sâm).

7. SỰ CẤM KỴ TRONG KHI DÙNG THUỐC

Những vị thuốc cấm kỵ khi có thai

Loại cấm dùng: Ba đậu (tả hạ), Khiên ngưu, Đại kích, Thương lục (trục thuỷ), Tam thất (hoạt huyết), Sạ hương (phá khí), Nga truật, Thuỷ diệt, Manh trùng (phá huyết). Các vị thuốc này có tác dụng trục thuỷ, tả hạ, phá khí, phá huyết.

Loại dùng thận trọng: Đào nhân, Hồng hoa (hoạt huyết), Bán hạ, Đại hoàng (tả hạ), Chỉ thực (phá khí), Phụ tử, Can khương, Nhục quế (đại nhiệt). Các vị thuốc này có tác dụng phá khí, tả hạ, hoạt huyết, đại nhiệt.

Các vị thuốc tương phản lẫn nhau

  • Cam thảo chống: Cam toại, Nguyên hoa, Hải tảo
  • Ô dầu phản: Bối mẫu, Bán hạ, Bạch cập, Bạch liễm
  • Lê lô phản: các loại Sâm, Tế tân, Bạch thược

Cấm kỵ trong khi uống thuốc

 Khi ăn uống chú ý không nên dùng các thức ăn chống lại tác dụng của thuốc. Ví dụ:

  • Cam thảo, Hoàng liên, Cát cánh, Ô mai: kiêng ăn thịt lợn (heo)
  • Bạc hà: kiêng Ba ba
  • Phục linh: kiêng gấm.
  • Dùng thuốc ôn trung trừ hàn (nóng ấm): không ăn các đồ ăn lạnh
  • Dùng các thuốc kiện tỳ, tiêu đạo: không ăn chất béo, chất khó tiêu
  • Dùng thuốc an thần: không ăn các chất kích thích.

Nguồn: Viện Y học Cổ truyền Quân đội

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *